Kế tiếp, hắn tiến hành diệt đi một trong 2 loài, tảo hoặc vi khuẩn, theo dõi tiếp tục sự thay đổi nồng độ từng chất trong môi trường ở các giai đoạn ngay sau khi diệt, sau diệt 6 giờ, 12 giờ, 24 giờ và 48 giờ.
Hắn xác định được, ngay sau khi diệt tảo, hàm lượng carbon hữu cơ, biotin và sắt dạng hem đều tăng cao trong mẫu dung dịch. Nhưng theo thời gian trôi qua, nồng độ các chất này đều giảm nhanh chóng.
Như vậy, hắn ghi nhận rằng, đây là các chất do tảo tiết ra, nên khi diệt tảo, các sản phẩm này được giải phóng từ tế bào của tảo ra môi trường xung quanh. Lượng vi khuẩn theo thời gian tăng nhanh, nhanh hơn nhiều so với mẫu dịch chứa vi khuẩn Dinoroseobacter không có tảo. Như vậy, Dinoroseobacter cần các chất này từ tảo để sinh trưởng.
Mặt khác, trong môi trường vi khuẩn bị tiêu diệt, các tế bào vi khuẩn vỡ ra, giải phóng các chất vào môi trường nước. Tốc độ sinh trưởng của tảo khi đó nhất thời tăng lên, nhưng chỉ tăng sau một thế hệ. Tương ứng với diễn biến đó về mặt thời gian, nồng độ vitamin B12, amoni, auxin indole-3-acetic acid (IAA) trong nước tăng nhẹ rồi giảm nhanh. Cuối cùng, sau 24 giờ, khi các chất này gần như biến mất trong mẫu nuôi cấy, tốc độ tăng trưởng của tảo cũng trở nên chậm lại rõ rệt, thậm chí, một số lượng đáng kể tảo không còn tiếp tục sinh trưởng nữa.
Thí nghiệm trên giúp Dương Thiên xác định được nguồn gốc các chất, đồng thời cũng khẳng định được các chất cần thiết cho sự phát triển của tảo và vi khuẩn Dinoroseobacter.
Dương Thiên tiếp tục theo dõi các môi trường nuôi cấy khác.
Tới một ngày, khi Dương Thiên tới phòng thí nghiệm đánh giá, hắn bất ngờ thấy tảo nuôi cấy đột nhiên “lăn” ra c·hết hàng loạt, khiến hắn ngơ ngác hồi lâu.
Sợ có người tới p·há h·oại nghiên cứu, hắn truy xuất camera theo dõi. Nhưng tỉ mỉ xem đi xem lại nhiều lần, hắn đều không phát hiện có người xâm nhập trái phép vào khu vực phòng thí nghiệm.
Hắn quay sang kiểm tra máy giá·m s·át nhiệt độ, độ ẩm. Nhưng báo cáo từ máy giá·m s·át cung cấp, nhiệt độ và độ ẩm mặc dù có dao động nhưng không đáng kể, vẫn liên tục không hề vượt qua khoảng an toàn.
Hắn cố gắng bình tĩnh quay trở lại kiểm tra môi trường nuôi cấy tảo. Rồi hắn nhất thời phát hiện ra tảo thì c·hết, nhưng lượng vi khuẩn ngược lại tăng hơn đáng kể so với ghi chép trước đó.
Thấy vậy, hắn không vội hủy bỏ lô mẫu này, mà lấy mẫu phân tích thành phần các chất, đồng thời tiếp tục theo dõi thêm sự phát triển của vi khuẩn.
Không ngoài dự liệu của hắn, vi khuẩn phát triển tới một trạng thái bão hòa, rồi cũng bắt đầu thoái triển.
Phân tích các chất đi ra, ở thời điểm ngay sau khi tảo c·hết, các cần thiết cho vi khuẩn như carbon hữu cơ, biotin và sắt dưới dạng hem tăng mạnh.
Vì lượng tảo phát triển tới trạng thái rất sung túc, nên sau khi chúng c·hết hàng loạt, hàm lượng các chất dinh dưỡng tràn ngập trong môi trường nuôi cấy. Vi khuẩn theo đó điên cuồng hấp thu và sản sinh thế hệ mới.
Rồi khi môi trường bị vi khuẩn bão hòa, nhưng tảo không còn, hàm lượng các chất dinh dưỡng cũng không được tạo ra thêm mà giảm đi rất nhanh, dẫn tới tốc độ sinh trưởng vi khuẩn bị kìm hãm và nhanh chóng bị c·hết đi vì “đói”.
Hắn tự đặt câu hỏi tại sao, tra xét lại toàn bộ các số liệu tỉ mỉ ghi chép lại từ ngày đầu tiên. Hắn không chắc môi trường nuôi cấy có phát sinh tạp nhiễm vi khuẩn hoặc virus gây bệnh không. Vì vậy, các dịch nuôi cấy qua các giai đoạn đều được hắn mang đi gạn lọc, phân tách và giải trình tự gen.
Kết luận chỉ ra, môi trường không bị tạp nhiễm virus, thậm chí vi khuẩn cũng chỉ có Dinoroseobacter, không phát sinh thêm loài khác.
Môi trường nuôi cấy không tìm ra được chất ngoại lai, cũng không thấy phát sinh loài gì mới, hắn một lần nữa lật lại số liệu ghi chép.
Dương Thiên phân tích tất cả ống mẫu môi trường nuôi cấy, hắn tự đặt ra câu hỏi, liệu có phải vi khuẩn phát triển quá mức dẫn tới tảo bị tiêu diệt không?
Sử dụng các thuật toán thống kê, hắn nhận ra, dường như thực sự có mối liên quan này. Điều này cũng đã có một số báo cáo quốc tế đưa ra.
Nhưng giống như các bài báo trên, hắn nhận thấy, sự tương quan này giống như không phải rất chặt chẽ.
Thật vậy, dù cùng một loài vi khuẩn Dinoroseobacter, nhưng số lượng của chúng có sự biến động không nhỏ ở thời điểm tảo bị c·hết hàng loạt.
Do đó, hắn nghĩ rằng, số lượng vi khuẩn có liên quan tới sự c·hết của tảo, nhưng không phải nguyên nhân gốc rễ của vấn đề.
Hắn tiếp tục đánh giá lại bộ số liệu, chợt, hắn thấy được một điểm giống như rất trùng hợp.
Dương Thiên vội rà soát lại một lần, xác nhận mình không ghi chép sai, hắn lúc này mới sử dụng thuật toán kiểm nghiệm lại phán đoán của mình.
Nhóm hợp chất carbon hữu cơ, biotin, sắt dạng hem, vitamin B12, amoni, auxin indole-3-acetic acid (IAA).
IAA ! Auxin indole-3-acetic acid !
Chính là nó!
Dương Thiên hai mắt tỏa sáng khi nhìn thấy thuật toán thống kê chỉ ra IAA là chất tương quan rất chặt với sự c·hết hàng loạt của tảo.
Nhưng IAA là hormon kích thích tăng trưởng tảo, vì sao lại trở thành c·hất đ·ộc rồi g·iết c·hết chúng rồi?
Dương Thiên xem lại tiến trình, hắn nhận ra rằng, theo sự phát triển của tảo, vi khuẩn cũng phát triển đồng thời tiết ra IAA kích thích tảo sinh trưởng.
Lượng IAA trong mẫu nuôi cấy từ ngày 1 đến ngày 14 đều tăng lên. Ở ngưỡng này, hắn đánh dấu và gọi là ngưỡng chuyển đổi.
Sau nồng độ ngưỡng chuyển đổi, tảo bắt đầu c·hết hàng loạt. Dinh dưỡng tràn ra môi trường nuôi cấy khiến vi khuẩn điên cuồng sinh trưởng, IAA được tạo ra tăng đột biến, nhưng dường chất này như không ảnh hưởng tới sự phát triển của vi khuẩn.
Bằng chứng là vi khuẩn rõ ràng bị c·hết khi thiếu dinh dưỡng do tảo cung cấp, còn nồng độ IAA ở thời điểm suy thoái của vi khuẩn trên các ống nghiệm khác nhau, có sự dao động rất lớn.
Để kiểm nghiệm lại giả thuyết này, Dương Thiên tiếp tục tiến hành nuôi cấy một mẻ tảo nữa.
Quả như hắn dự đoán, sau 14 ngày, tảo lại bắt đầu c·hết hàng loạt, nồng độ IAA tương quan chặt chẽ với sự c·hết đi của tảo.
Đến lúc này, hắn mới khẳng định, IAA chính là con dao hai lưỡi, vừa có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng của tảo, vừa có thể g·iết c·hết chúng nếu hàm lượng đạt tới ngưỡng chuyển đổi. Ý ngụ của từ ngưỡng chuyển đổi chính là chuyển từ vai trò kích thích sang vai trò tiêu diệt.
Tìm ra được điều này, hắn biết môi trường nuôi cấy cần phải được kiểm soát hàm lượng IAA, chỉ như vậy, tảo mới có thể “an toàn” sinh trưởng không ngừng.
Không chỉ dừng lại ở đó, Dương Thiên còn hiểu rằng, IAA cũng là mấu chốt của dự án nuôi trồng tảo, là bí quyết thương nghiệp có thể dựa vào đó để hạn chế được sự sao chép của các đối thủ. Vì dù sao, sau này khi hắn làm sạch nước tại ao hồ, sông suối tại nhiều nơi khác nhau, danh tính Dinoroseobacter và loại tảo mà hắn dùng rồi cũng sẽ bị đối thủ thu thập được.
Cái bẫy IAA nhiều kẻ tham lam, đốt cháy giai đoạn có lẽ sẽ phải chịu thiệt thòi lớn.
Nhưng, một ổ khóa không bao giờ có thể đem lại an toàn tuyệt đối.
Từ 5 loài vi khuẩn, 4 loài tảo, tổ hợp đơn - đơn, đa - đa, tạo ra rất nhiều phương án khác nhau.
Dương Thiên cũng không vội, hắn tiếp tục tỉ mỉ thực hiện tiếp các nghiên cứu của mình.
...
Sau 2 tháng, ngày này, khi hắn đang giá·m s·át thu hoạch vụ lúa mì, lúa mạch từ nông trường, ngửi thấy mùi khi gặt lúa chín, hắn nhất thời ngẩn người.
Trong đầu hắn nhất thời nảy ra một ý tưởng giống như rất điên rồ.
Azospirillum và Bacilus!
Azospirillum và Bacilus!
Azospirillum và Bacilus!
Hắn lẩm nhẩm một mình, rồi đột nhiên gọi lại Kamau đang ngẩn cười nhìn từng bó lúa lúa đang được đưa vào máy tách hạt, trực tiếp ném lại quyền giá·m s·át thu hoạch cho hắn. Rồi vội vội vàng vàng chạy về phòng thí nghiệm.